Trung Quốc là tổng hợp của nhiều quốc gia và nền văn hóa đã từng tồn tại và tiếp nối nhau tại Đông Á cách đây ít nhất 3.500 năm. Quốc gia Trung Quốc ngày nay có thể được coi như có 1 hay nhiều nền văn minh khác nhau, nằm trên một hay nhiều đất nước khác nhau, sử dùng một hay nhiều ngôn ngữ khác nhau .Với một trong các thời kỳ văn minh liên tục dài nhất thế giới và hệ thống chữ viết tiếp diễn được sử dụng cho đến ngày nay, lịch sử Trung Quốc đặc biệt bởi những chia tách và thống nhất lặp đi lặp lại qua những thời kỳ hòa bình xen kẽ chiến tranh, trên một lãnh thổ đầy biến động. Lãnh thổ Trung Quốc bành trướng ra xung quanh từ 1 vùng đất chính tại Bình nguyên Hoa Bắc và lan ra tận những vùng phía Đông, Đông Bắc, và Trung Á. Trong hàng thế kỷ, Đế quốc Trung Quốc cũng là 1 trong những nền văn minh có khoa học và công nghệ hiện đại nhất, và có ảnh hưởng văn hóa lớn trong khu vực Đông Á. Trung Quốc là một trong những cái nôi văn minh nhân loại sớm nhất, văn minh Trung Quốc cũng là 1 trong số ít những nền văn minh, cùng với Lưỡng Hà cổ (người Sumer), Ấn Độ (Văn minh lưu vực sông Ấn Độ), Maya và Ai Cập Cổ đại (mặc dù có thể nơi đây học từ người Sumer), tự tạo ra chữ viết riêng. Triều đại đầu tiên theo các tư liệu lịch sử Trung Quốc là nhà Hạ; ngoài ra chưa có chứng cớ khảo cổ học kiểm chứng được sự tồn tại của triều đại này (lúc Trung Quốc phát triển kinh tế và cải cách chính trị đồng thời có đủ nhân lực và trí lực để theo đuổi mạnh mẽ hơn nhằm minh chứng về một lịch sử cổ đại, với một số di chỉ Đá Mới được đưa ra cũng như một vài chứng cứ được gom lại theo thời gian, thể hiện rõ bản sắc, sự thuần nhất và niềm tự hào dân tộc, hay nói cách khác là thể hiện chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa đại Hán tộc). Triều đại đầu tiên chắc chắn tồn tại là nhà Thương định cư dọc theo lưu vực sông Hoàng Hà, vào khoảng thế kỷ 18 tới thế kỷ 12 TCN. Nhà Thương bị nhà Chu chiếm (thế kỷ 12 tới thế kỷ 5 TCN), đến lượt nhà Chu lại bị yếu dần do mất quyền cai quản những lãnh thổ nhỏ hơn cho các lãnh chúa. Cuối cuộc vào thời Xuân Thu, nhiều quốc gia độc lập đã trỗi dậy và liên tục giao chiến, và chỉ coi nước Chu là trung tâm quyền lực trên danh nghĩa, cuối cùng Tần Thủy Hoàng đã thâu tóm tất cả các quốc gia và tự xưng là hoàng đế vào năm 221 TCN, lập ra nhà Tần, đất nước Trung Quốc thống nhất về thể chế chính trị, chữ viết và có một ngôn ngữ chính thống đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc. Hầu như 67% diện tích Trung Quốc là cao nguyên và núi cao; ở phía tây, cao nguyên Thanh Hải - Tây Tạng chiếm hơn 25% diện tích quốc gia. Tuy độ cao trung bình của cao nguyên này là 4000m, thế nhưng từ bề mặt có những hồ nằm rải rác đó đây, những dãy núi vươn cao tới hơn 6000m. Trong số 12 đỉnh núi cao nhất thế giới, Trung Quốc có tới tám đỉnh, dọc theo ven rìa phía bắc của cao nguyên Thanh Hải - Tây Tạng là dãy núi Côn Luân. Ven rìa phía nam là dãy Himalaya, tạo thành biên giới giữa Trung Quốc và Nepal, các đỉnh núi cao có tuyết phủ quanh năm, băng giá và nhiều loại băng tích đã khắc họa nên quang cảnh núi cao kì thú. Chỉ gần 25% lãnh thổ Trung Quốc nằm ở độ cao dưới 500m, đồng bằng Hoa Bắc chủ yếu nằm thấp hơn dưới 100m, là khu vực đất thấp rộng nhất ở Trung Quốc. Đồng bằng này được tạo thành bởi phù sa lắng đọng của sông Hoàng Hà, các đồng bằng thấp khác của Trung Quốc chỉ có ở dọc trung lưu, hạ lưu sông Dương Tử và ở một vùng châu thổ với diện tích nhỏ hơn nhiều là châu thổ sông Châu Giang. Khu vực tây - bắc của Trung Quốc là miền đất của các vùng sa mạc, chiếm trên 20% tổng số diện tích đất bằng phẳng của đất nước. Sa mạc cát lớn nhất Trung Quốc là sa mạc Taklamakan, Con đường tơ lụa chạy ven rìa phía bắc sa mạc này, một số nhà buôn đã bị lạc trong hành trình vì bão cát và cái đói khát khiến cho họ hoang mang. Trung Quốc có nhiều sông, nhưng cho đến nay Dương Tử và Hoàng Hà vẫn là những con sông quan trọng nhất, chúng bắt nguồn từ cao nguyên Thanh Tạng và sở hữu dòng chảy nhìn chung đổ về phía đông. Dương Tử là con sông dài nhất Trung Quốc với chiều dài 6380km, đoạn thượng nguồn trên cao nguyên, dốc đổ nên nước sông chảy siết. Sông phải len qua các hẻm núi sâu và hẹp nên có nhiều ghềnh đá. Sau khi chảy qua các dãy núi nằm ở phía đông của Đập Tam Hiệp lừng danh, con sông bắt đầu xuôi về miền đồng bằng. Lòng sông tỏa rộng, chảy quanh co, uốn khúc qua miền đồng bằng bằng phẳng, vùng châu thổ mênh mông của sông Dương Tử trải rộng từ Nam Kinh đến biển Hoa Đông. Hoàng Hà là sông dài thứ 2 ở Trung Quốc, với độ dài 5464km, ở vùng thượng lưu sông chảy qua những hẻm núi sâu trước khi lượn vòng thành 1 vòng cung khổng lồ ôm lấy cao nguyên Hoàng Thổ. Đoạn sông này cuốn theo lượng đất vàng dưới dạng phù sa trên hành trình ra biển. Với nguồn đất đó, Hoàng Hà là con sông nặng phù sa nhất thế giới; mỗi năm tải đến 1,6 tỷ tấn phù sa. Ở hạ lưu lòng sông bị bồi cao nên có đoạn lòng sông còn cao hơn vùng đồng bằng xung quanh tới 10m. Địa hình tiêu biểu của Đồng bằng Hoa Bắc là hệ thống đê điều dài 700 km chạy dọc 2 bên bờ sông Hoàng Hà. Sông Hoàng Hà đổ ra biển ở Bột Hải, bên cạnh đó vì lũ lụt cửa sông không cố định mà đã đổi thay nhiều lần. Lụt lớn từng gây thiệt hại tới sinh mạng và nông nghiệp; khi đã mất mùa thì nạn đói hoành hành, vì lẽ đấy mà sông Hoàng Hà còn được gọi là "Nỗi buồn của Trung Hoa". Chính phủ nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa hiện chính thức xác nhận tổng cộng 56 dân tộc, trong đấy người Hán chiếm đông đảo. với số dân ngày nay là hơn 1,3 tỉ người trên tổng số dân toàn thế giới là 6,4 tỉ, Trung Quốc là nơi có xấp xỉ 20% loài người (homo sapiens) sinh sống. Vào thời Mao Trạch Đông, tình hình phát triển dân số không được kiểm soát tốt đã khiến cho số dân Trung Quốc bùng nổ nhanh chóng và đạt tới con số 1,3 tỉ người như ngày nay. Để giải quyết vấn nạn này, chính phủ CHNDTH đã vận dụng 1 chính sách kế hoạch hóa gia đình dưới tên gọi chính sách 1 con. Người Hán nói những thứ tiếng mà những nhà ngôn ngữ học hiện đại coi là những ngôn ngữ hoàn toàn khác biệt, ngoài ra tại Trung Quốc nhiều người coi đấy là những ngôn ngữ của tiếng Trung Quốc. Tuy có nhiều ngôn ngữ nói khác nhau nhưng kể từ đầu thế kỷ 20, người Trung Quốc bắt đầu dùng chung một chuẩn viết là "Bạch thoại" được dựa chủ yếu trên văn phạm và từ vựng của Phổ thông thoại là ngôn ngữ được sử dụng làm chuẩn. Ngoài ra từ hàng ngàn năm nay giới trí thức Trung Quốc dùng một chuẩn viết chung là Văn ngôn. Hiện nay Văn ngôn không còn là cách viết thông dụng nữa, tuy nhiên trong chương trình học nó vẫn tiếp diễn được dạy và như vậy, người Trung Quốc bình thường ở một góc độ nào đó có thể đọc hiểu được. Không như Phổ thông thoại, những ngôn ngữ khác chỉ được nói mà không có cách viết.
0 Comments
Leave a Reply. |
Archives
July 2021
Categories
All
|